Trong văn học, chữ heo xuất hiện sớm nhất là thấy trong truyện thơ Nôm "Lục súc tranh công" được cho là viết từ thời Lê trung hưng  (1533–1789).
"Việc hòa giải, heo đầu công trạng,
Thấy mặt heo nguôi dạ oán thù."
Chữ heo cũng xuất hiện trong từ điển Việt Bồ La của Alexander de Rhodes (1651).
Chữ lợn được nói từ miền Bắc cho đến vùng Thanh Nghệ, còn từ Bình Trị Thiên trở đi thì gọi là heo. Bởi vậy, có ý kiến cho rằng chữ heo xuất hiện sau khi người miền Trung di dân vào Nam. Có câu chuyện cười diễn giải người miền Nam đổi lợn thành heo như sau:
"Người miền Nam di dân từ miền Trung xuống, tiếng nói của họ nặng, khi bẩm trình với quan lớn, họ phát âm thành…"quan lợn". Quan sai lính phạt đòn 10 hèo vì cho là vô phép. Vì vậy họ gọi mỉa lợn là "hèo". Trên đường vào miền Nam, họ đánh rơi dấu huyền nên mới có…con heo."
Câu chuyện này được cho là diễn giải trong Đại Nam Quốc Âm Tự Vị của Huỳnh Tịnh Của tuy nhiên trong cuốn từ điển này không có đoạn diễn giải trên.
Theo "Đại Nam quấc âm tự vị" của Huỳnh Tịnh Của thì "heo cúi" là tiếng đôi, chỉ nghĩa là heo. Như vậy có thể hiểu là "heo" và "cúi" đồng nghĩa nhau. Chữ "cúi" có thể là một giống lợn rừng, lợn hoang, và có thể là một từ Việt cổ. Người Mường gọi con lợn là con cúi. Một loài lợn hoang gọi là lợn lửng cũng được gọi là "con cúi".
Theo một số ý kiến thì con lợn tiếng Việt cổ gọi là "con heo" (hay con cúi) và di dân vào miền Nam, con lợn được người Nam kêu lại với tiếng Việt xưa cũ là…con heo.